Tôi đưa nhóm bạn về trảng sen chơi. Mỗi lần quay lại là thêm một
lần thở phào nhìn thấy sen kia súng nọ, cây cỏ ấy vẫn còn nguyên đó. Nước vẫn
trong veo, hết mùa sen thì đến lượt mây trời nở. Quang cảnh chưa sứt mẻ xíu
nào. Trong lúc tôi ngồi ở sàn nhà thòng chân đùng đưa khỏa nước, ngẫm ngợi về
sự dễ vỡ của thiên nhiên thì đằng kia vợ chồng anh chủ nhà đang ngợi ca chất
lượng của mớ mật ong mà anh lấy được từ rừng, gợi ý sẵn sàng bán cho đám nhỏ
Sài Gòn với giá rẻ làm quen. Chị vợ cũng rạng rỡ phụ họa theo, vừa mới đây thôi
chị còn chù ụ quạu đeo vì khách mang bia theo trong khi nhà chị cũng trữ bia để
bán. Chữ “mật” ướp giọng chị ngọt lừ như chưa từng cau có bên vách với cô con
dâu, “Đãi đám khách này cá nhỏ thôi, biết tụi nó trả được bao nhiêu tiền mà cho
ăn cá lớn…”. Tôi nghĩ chắc mình bị ảo giác, anh chồng kia làm gì lại tỏ ra cay
cú việc tôi mướn đò khác mà không kêu đò nhà anh đưa đón.
Năm trước, khi lần đầu đến vùng đồng rừng hoang dã này chơi, bệnh
bồn chồn trong tôi trỗi dậy. Tôi sợ mất. Ngồi ở nhà của một người dân neo sống
bên bìa trảng ngó cánh rừng u tịch bên kia màn mưa bụi, tôi đã nghĩ có khi đây
là lần cuối cùng mình trông thấy quang cảnh tĩnh lặng này. Ngày mai người ta sẽ
đổ xô tới đây làm du lịch, sẽ cặm lên giữa trảng sen minh mông cây cầu bê tông
nhà hàng bê tông cùng những cô tiếp viên ca ra rả những bài vọng cổ vô hồn như
tua mãi một đoạn băng cũ. Và cái chái đậu xuồng kia, mái nhà lợp lá chầm đóp
kia, những tấm ván sàn thô xẻ từ những thân dừa kia, những chiếc xuồng ba lá ọp
ẹp kia… rốt cuộc chỉ còn trong tranh ảnh của bạn bè tôi, và trong ký ức của
những người đã từng ngồi ở đây trong một trưa mưa xiên bùi ngùi.
Bữa ấy anh chủ nhà nói lo khỉ gì, tới đâu hay tới đó, cứ nhậu cho
đã đời. Mâm cơm bày ra rồi, dường như ở nhà có bao nhiêu thức ăn đều đã vét hết
ra đãi khách. Sơ giao mà chủ nồng hậu hồ hởi đến nỗi tôi nghĩ nếu nhà hết củi
nấu cơm, chắc họ rút cây ven vách ra chụm luôn. Người bản xứ nổi tiếng hào
phóng chịu chơi, nếu cần sẵn sàng xúc lúa giống cho láng giềng mượn ăn qua mùa
giáp hạt.
Sau này tôi vẫn thường đưa bạn bè trở lại ngôi nhà sàn bên trảng
nước đó, phiền cái gia đình nhỏ nọ giúp cho bữa cơm trưa. Căng bụng với cá
đồng, rau rừng, gió trời, và ấm lòng bởi vợ chồng chủ nhà nhậu bạt mạng, ca
mùi. Lúc về bọn tôi hay gửi chút tiền gọi là “mua sữa cho mấy nhóc”, như một
cách để bù đắp lại thùng gạo nhà họ vừa bị bọn tôi vét sạch, cũng để nhẹ món nợ
ơn nợ nghĩa. Những tờ giấy bạc cứ bỡ ngỡ ngập ngừng trên tay người vợ đen đúa
mà trên môi chẳng bao giờ tắt nụ cười.
Cảnh đẹp, người hay, bạn nào từng tới chơi cũng kêu trời vì thích
vì không khám phá ra chỗ này sớm hơn. Mai mốt đây trảng sen bị những nhà quy
hoạch nông nổi trét son phấn lên, là tiêu tan một chốn đến.
Nhưng giờ cái gia đình nhỏ kia nhắc tôi nhớ rằng, con người còn dễ
bị đánh mất hơn cả thiên nhiên, vì người có khả năng tự mình đánh mất mình.
Những món tiền tụi tôi gửi lại đã đánh thức tính thực dụng của những người quê
hồn hậu. Họ bắt đầu vào cuộc bán mua ráo riết. Như những em bé Sa Pa giấu mặt,
xòe tay đòi tiền trước ống kính máy ảnh. Như một quán ăn Tam Đảo đội giá tô phở
chỉ vì khách nói giọng Nam Bộ. Như anh xe ôm Huế không chịu chỉ đường mà sốt
sắng dẫn khách đến tận nơi, để đòi tiền công.
Tôi tự an ủi thôi thà vậy cho sòng phẳng, cho khỏi ơn nghĩa, cho
đi khỏi nhớ. Nhưng mà trời ơi, tôi vẫn không nén được niềm thương nhớ những
người đã từng mang nồi kho quẹt ra để tụi tôi qua cơn đói cùng cơm cháy, những
người từng áy náy, lâu lâu có khách ghé nhà mà trong bếp hong có gì tử tế, để
đãi.
Như là tôi vừa chứng kiến xong một cuộc hoa quỳnh nở, rồi tàn
nhanh, mang theo một vẻ đẹp tuyệt tích.
Nguyễn Ngọc Tư
No comments:
Post a Comment