Quán chị cheo leo trên sườn núi, cạnh lối đi lên
động Tiên Sơn. Nhưng nhà chị xa ngoài bến thuyền, nơi du khách bắt đầu cuộc
hành trình vào Phong Nha. Từ mờ sáng chị quá giang thuyền lên núi, tàn chiều
quay về nhà. Hôm nào đông du khách, chị kiếm được chừng ba mươi ngàn, nhưng có
ngày vắng người, khách ngại leo núi, chị về tay không.
Chị đẹp, và khuôn mặt phúc hậu hiền từ đến mức
người trong đoàn tôi phải thốt lên, “thấy thương đến nỗi không nỡ chọc ghẹo”.
Chị hay cười, lúc cười còn hiền hơn. Tôi than đói, chị chia một cái bánh mì nhỏ
teo và giở nắp nồi mời tôi, trời ơi, mớ khoai luộc còn nghi ngút khói, củ khoai
cũng nhỏ, ngọt lừ, chị nói khoai này không bán, ăn với chị cho vui, có vẻ như
chị đã san sớt cho đám người mệt nhừ, đói khát chúng tôi ít thức ăn của buổi
trưa rồi. Không biết cảm động vì điều đó, hay vì cái cười thuần khiết, vì
giọng nói dịu dàng, vì sự thẹn thùng, sượng trân mỗi khi gã táo tợn nào gọi,
“bán thêm chai nước, mình ơi”… mà tôi bỗng nghĩ, trời ơi, mình đã gặp được
người đẹp nhất Quảng Bình. Lúc ra về, một anh bảo, hẹn mai mốt gặp. Chị cười,
“biết còn quay lại nữa không mà hẹn?!!”. Nghe ngậm ngùi, nghe buồn buồn, như
chúng tôi vừa lỡ lời.
Sau mỗi bậc thang, quán chị khuất dần. Tôi bỗng
nghĩ về những con người cô đơn tôi đã gặp suốt dọc đường. Như chị, lũ lượt một
ngày bao nhiêu là du khách lên ngọn núi này, ai là kẻ tri âm? Dừng chân một
chút, uống ly nước, ăn quả trứng, mua món hàng lưu niệm, ai chia sẻ với chị
những vui buồn? Ai lo lắng cho chị nếu bất ngờ chị lên cơn sốt vì sương lam
chướng khí? Lũ lượt ngang qua chị biết bao người phải chăng là bao nhiêu sự trơ
trọi, cô đơn?
Như người thu phí cầu Mỹ Thuận, chị nhân viên
tiếp tân khách sạn, anh bảo vệ trong lăng Tự Đức… tôi luôn đọc được sự lạc lỏng
đơn độc của họ với cuộc đời. Chúng tôi càng đông đúc, càng vui vẻ, càng phô
trương và thoả mãn với những gì mình có càng đẩy họ ra xa mình. Đứng giữa dòng
người, nhưng họ bị chìm khuất và quên lãng đi, vì chúng tôi tiếp xúc với họ chỉ
bằng tấm lưng chứ không bằng khuôn mặt. Chúng tôi đi qua đi lại, cười cười nói
nói, chọn những cảnh đẹp nhất để chụp tấm hình đem về khoe khoang, và chúng
tôi đã bỏ họ lại phía sau, vì những bộ quần áo sang trọng lượt là, những món
hàng lưu niệm xa xỉ. Vì sau đó, chúng tôi sẽ về nhà, sẽ quên lãng họ.
Họ thì vẫn ở đó, vật lộn với cuộc mưu sinh. Có
lần, tôi tấm tắc khen với một người Quảng Bình, Phong Nha đẹp quá, đẹp nhất
nước đó, chị à. Chị chèo thuyền cười, tui cũng không biết nữa, hồi nào giờ tui
chỉ biết bến thuyền, với một khúc sông Son, có đi khỏi đây đâu mà biết chỗ nào
đẹp hơn chỗ nào”. Tôi định khen lấy lòng, để xem người phụ nữ nghèo khó này hạnh
phúc tự hào như thế nào, không ngờ… Mất ba mươi năm tôi mới tới Phong Nha, cứ
nghĩ quá dài, cứ xấu hổ với bạn bè về sự ngơ ngác, quê mùa của mình, còn chị
gần năm mươi rồi, thị xã Đồng Hới vẫn là một nơi xa xôi, lạ lẫm.
Và người phụ nữ này vẫn vài ba ngày lại đưa rước
khách vào thế giới hang động nổi tiếng thế giới, ghi tên mình vào bộ tộc những
người cô độc, cười nói với người đời mà thui thủi ở một bến bờ xa xôi, nơi có
bảy đứa trẻ trong ngôi nhà nhỏ bên sông Son đang hau háu đợi thuyền mẹ về. Không
phải ai cũng biết điều đó, người ta nhiều khi tưởng chỉ một mình lủi thủi nơi
thâm sơn cùng cốc, xa làng xa chợ mới gọi là cô đơn.
Nhưng sống giữa bầy đàn đông đúc mà không ai
hiểu được mình, không ai chia sẻ với mình, không ai trìu mến với mình, đâu thử
lên núi cao xem có đỡ đau hơn không?
Nguyễn Ngọc Tư
No comments:
Post a Comment