Nơi ấy, lúc đất chuyển
vào xuân, phù sa bắt đầu nôn nả lấn biển, rừng mắm xanh non rào rạt tiến về
phía trước giữ đất lại cho người. Nơi ấy, những ngôi nhà đều không cửa, nhà mở
toang cho gió Nam vào, chướng tới, bấc qua, nhìn nhà là hiểu người, chân thật
đến bày cả gan ruột... Nhưng rồi đến với làn sóng di dân ào ạt, cái không cần
thay đổi đã thay, còn cái cần thay đổi thì chưa đổi bao giờ. Đất Mũi ngày xưa
sẽ đến một ngày xa mãi...
Thỉnh
thoảng anh gọi điện cho tôi từ thành phố Hồ Chí Minh, hỏi vụ con chó cò nó ra
làm sao, trái giác là trái gì mà nấu được canh chua bông súng... (sao mà những
gì tôi viết ra đều khó hiểu như thế không biết). Có nói gì thì cuối cùng, anh
cũng gạ, hỏi rằng: “Còn Đất Mũi, chỗ đó nó ra làm sao, em hả?”.
Trời,
đất nước mình hẹp te vậy mà lời anh hỏi sao nghe thăm thẳm mù xa. Nhưng anh lại
hỏi lầm người rồi, tôi là đứa bạc bẽo từ Đất Mũi ra đi không nhớ thương, luyến
tiếc, tôi là loại người thấy nhà người ta đẹp hơn nhà mình, thấy vợ người ta
đẹp hơn vợ mình, nên tôi bảo rằng, “Dạ, Đất Mũi cũng thường thôi anh”. “Thường
à?”. Phải, thường lắm, thường thiệt là thường, tôi trả lời mà tự xấu hổ trong
lòng. Về nói lại với cô em gái, em tôi la lên: “Ôi trời, sao anh không mời ảnh
về thăm quê mình một chuyến cho biết hả anh?”, đó là lúc tôi lặng đi, cái bản
chất mến khách của người Đất Mũi trong tôi cũng đã phai rồi.
Thành
ra trong câu chuyện này có tới ba người, anh, tôi và cô em gái Đất Mũi rặt ri.
Tôi thành nhịp cầu nối hai miền đất.
Em
tôi nhắn với anh rằng, Đất Mũi thiệt tình không có núi cao, không có biển xanh,
cát trắng, không cung đình cổ kính lại càng không có phổ cổ đìu hiu. Đất Mũi
chỉ có bùn sình, rừng thẳm và biển. Dẫu biển không xanh ngằn ngặt mà đục ngầu
phù sa nhưng ở đây nhiều biển lắm. Biển đằng trước, biển bên phải, biển bên
trái. Bình minh, mặt trời từ biển quẩy nước ngoi lên rồi khi chiều về, mặt trời
chín đỏ già nua lại ngụp về biển sau một ngày tự cháy.
Bây
giờ, Đất Mũi đang mùa gió chướng. Coi ra thì người xóm Mũi sướng nhất đời rồi,
ngọn Nam, ngọn chướng về, xóm Mũi là nơi đón, thưởng thức trước tiên. Em tôi
muốn mời anh về ngay mùa này, lúc đất chuyển vào xuân. Gió mùa phây phẩy, gió
đưa trời lộng lên cao, phù sa bắt đầu nôn nả lấn biển, rồi không lâu lắm đâu,
từ bãi bồi, đất sẽ cồn lên, một rừng mắm xanh non rào rạt tiến về phía trước
giữ đất lại cho người. Mùa này, ba khía chuẩn bị vào hội; không biết hẹn hò
nhau từ hồi nào, ba khía tụm về xúm xít đeo trên gốc mắm, rễ đước. Con nào con
nấy thịt chắc nụi, gạch ứ đầy mai (nói tới đây tự dưng thèm ba khía muối ăn với
bần chua cháy lòng).
Cũng
mùa này, bắt đầu con nước rông, cây đước nhón cái rễ như cái nơm cao lên đến
nửa thân cây, những cái rễ mới thò xuống từ trong tán lá rừng xanh biếc. Nước
tràn bờ bãi, người xóm Mũi bắt đầu cuộc sống rặt trên sàn. Những cây đước lót
sít sao nhau để làm lối vào nhà, lối qua bên hàng xóm, lối ra nhà tắm, chuồng
gà. Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ
thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn
nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lội tới xứ
bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?
Lạ
lắm, nếu anh đến, thể nào anh cũng bảo cái mũi đất cùng trời cuối đất này sao
mà lạ quá đi?
Lạ
chớ, em tôi cười, lạ từ cái cây, ngọn cỏ, vụ trái giác với con chó cò chỉ là
chuyện nhỏ. Em tôi hỏi anh đã từng thấy nụ bông đậu cộ tím biêng biếc như những
chiếc giày cao cổ (em bảo chắc như đinh đóng cột rằng hầu hết hoa dại ở xứ tôi
đều có màu tím thủy chung), anh đã thấy những bông vẹt cứng cỏi xòe chơm chởm
như cái nơm cá, bao giờ kết trái, hoa lại trở thành chiếc ô che đầu, rồi những
trái quao mới sinh ra đã cong cong. Em tôi vì nuôi nấng mẹ già, không chịu lấy
chồng, ai tới hỏi, em đều cắc cớ đòi lễ vật phải có một mâm muỗi tréo cánh và
mâm trái quao thật thẳng (vụ trái quao này là tôi nói thêm với anh, chứ đời nào
em nói). Và còn những trái đước quê tôi, anh đã biết? Từ khi còn là trái xanh
lủng lẳng trên thân cây mẹ, trái đước đã thẳng người trong tư thế một ngày cắm
thẳng xuống bãi bùn mà không mảy may nghi ngờ, chọn lựa. (Đôi lúc trên con
đường văn chương cô độc, tôi chùn bước, em tôi lại bảo tôi phải chặt lòng chặt
dạ, phải giống như những trái đước ấy, lao xuống đất văn chương bằng niềm say mê
mãnh liệt nhất).
Bao
giờ ngồi nghĩ thật lâu về quê nhà tôi cũng nhận ra rằng, dường như Đất Mũi
thiêng lắm, nhất là khi đất biết có người ngày mai chia xa nên dưới kinh bắt
đầu con nước rặt, nước chảy cạn chỉ còn một lạch nhỏ. Quê xứ bắt đầu cồn lên
những thứ mà ai cũng biết rằng không thể mang theo. Đây mùi cá khô vừa mới se
se nửa nắng hăng hăng nồng nả bay vào gió. Những giàn lưới tanh mặn mùi biển cả
vắt mình trên những giàn phơi. Tiếng tàu đêm ra biển rù rì. Mẻ un trên những
căn nhà nhỏ bên sông tù mù cuộn khói. Món hàu tái chanh, cá thòi lòi kho dừa,
vọp nướng... mà em tôi đãi món nào cũng ngọt tự nhiên một cách kỳ lạ. Mới nhớ
có người đã từng thốt lên chừng như cảm động không chịu được, rằng ở đây chỉ có
nước biển mặn thôi, tất cả thì ngọt bùi. Người Đất Mũi sao mà hiền từ, mến
khách thấu trời thấu đất vậy không biết, dường như sống giữa bao la trời, bao
la biển này, người ta phải học cách thương nhau để khỏi cô độc. Làm sao tay
xách nách mang những thứ này được đây, khi em gởi theo ít ba khía muối mang về,
ba khía thì mang về được rồi, còn cái tình cái nghĩa của người Đất Mũi đằm sâu
vậy, làm sao bỏ vô giỏ xách theo được?
Tôi
vẫn không từ bỏ câu nói của mình rằng Đất Mũi thường thôi, rất thường, nhưng
hết thảy mọi thứ ở đây đều làm cho người ta nhớ vì lạ, vì thương. Bầy dã tràng
xe những hòn cát liu riu nằm trên bãi Khai Long, những bông rau muống biển mỏng
tang mà chống chọi với gió trời, rập rờn tím ngát. Hòn Khoai thì xanh thẳm
ngoài kia với ngọn hải đăng chưa bao giờ tắt. Dường như mọi thứ ở đây đều thắm
và đậm. Nắng thì lầm lì thôi là lầm lì, gió cởi mở thôi là cởi mở. Rừng đã xanh
là xanh lặc lìa, một màu rời rợi. Biển đã đục là ngầu ngầu phù sa. Nước đã mặn
là mặn quéo đầu lưỡi. Người Đất Mũi rặt đã thương là thương trọn, đã nhớ thì
nhớ sâu, đã sầu thì sầu dai dẳng. Hết thảy đều không thể nửa vời. Cho nên khi
anh về, đừng có từ chối mà không cạn từng ly rượu đế cay xè, cũng đừng trả giá
nửa ly thôi, làm lòng bà con mình buồn nghen. Mà, anh dứt khoát phải gặp em tôi
một lần, cô có tất cả đặc trưng của người Đất Mũi, da ngăm ngăm, rắn rỏi, mắt
hay cười, em hay hồn nhiên xắn quần cao đến khỏi đầu gối lội qua kinh những lúc
nước ròng, mộc mạc không giả đò mắc cỡ làm duyên...
Những
năm tháng qua đi đã làm em tôi khôn lớn. Em bắt đầu biết buồn, mà toàn buồn
chuyện đâu đâu không hà. Mỗi lần lên thành phố thăm tôi, em đều ngồi thừ ra, em
nói, chắc mơi mốt rồi chẳng còn Đất Mũi ngày xưa nữa. Đất Mũi của ngày em lên
chín, mười, từ vàm Rạch Tàu đến tận cuối xóm Mũi thưa thớt nhà, nhưng những
ngôi nhà đều không cửa. Nhà mở toang cho gió Nam vào, chướng tới, bấc qua, tầm
nhìn thông thống, nhìn nhà là hiểu người, chân thật đến bày ra cả gan ruột của
mình mà rộng rãi, hào sảng. Tháng tám hội ba khía. Tháng chín mùa cua lên bãi.
Tháng mười hội cá đường. Rừng dày rậm rạp, rừng chồm sát mé kinh để níu kéo
chút hơi ấm con người. Cái hồi mà thiên nhiên ở đây hào phóng tới mức cha ông
chúng tôi chắc lòng chắc dạ tuyên bố với quân thù, chừng nào “Khai Long hết xác
cá đường, thì Mũi Cà Mau đó tao nhường cho bây”.
Thấy
em buồn, tôi chỉ cười, sao mà cô đi lo chuyện thiên hạ không vậy. Em giận tôi,
em bảo, “không, đó là chuyện của quê hương, của nhà mình, của thời thơ ấu chúng
mình”. Em tôi nghĩ hoài, rồi sau này khi tôi đưa anh về thăm biết làm sao bây
giờ, làm sao để đưa anh đến một ngôi nhà bình yên trải lòng ra như thế, với một
làn sóng di cư của hàng trăm, hàng ngàn người từ nơi khác tới, người Đất Mũi
khép cửa lòng tin. Người bản xứ vẫn gắn bó mình với chiếc ghe cào, ghe câu đánh
bắt gần bờ; với những chân đáy hàng khơi thì những người mới đến sống bằng cách
phá rừng, càn quét bãi bồi. Nên em bảo cố rủ anh về khi trở qua mùa gió chướng
bởi gió Nam là mùa gió buồn nhất, mùa này, tôm cá về bãi, người mới đến thôi
phá rừng mà đi đẩy te, xiệp, giăng lưới ba màng, sạt sò huyết, mò vọp, bắt cua.
Những cách đánh bắt hết thảy đều mang tính tận diệt. Bãi bồi nhão nhừ dấu chân
người, vạt mắm nhỏ xíu xanh líu ríu mới vừa bắt rễ để lấn biển giữ phù sa đã bị
càn phá giạt trôi, dẫu lòng đất âm ỉ muốn sinh sôi mà chân thì không sao bước tới.
S. Antov viết rằng, mỗi người có những ước mơ khác nhau nên không hiếm khi bi
kịch đã xảy ra vì có số ước mơ phải hy sinh để những ước mơ khác trở thành hiện
thực. Tôi nghĩ tới Đất Mũi. Ước mơ đất của em tôi, của người yêu thiên nhiên đã
đau đớn gục xuống cho bầy trẻ con có tiền đi học, khạp gạo để ở góc nhà được
đầy, bữa cơm không chỉ muối trắng, tối ngủ mùng lành, có mền đắp để qua mùa gió
bấc năm nay...
Rồi
lẫm đẫm đất đã đổi thay, cái bản sắc vùng đã phai nhạt ít nhiều (em lo là không
còn cái chất riêng của miền đất cuối, anh sẽ bảo anh ra Cần Giờ sướng hơn, chớ
lặn lội làm chi mấy ngày đường). Lô xô những ngôi nhà tạm bợ mọc lên chen nhau
bạt trống huơ cả mấy khoảng rừng. Thiên nhiên bắt đầu nghèo nàn, rách rưới, mà
đất vẫn hiền như mẹ, dẫu con lầm lỗi vẫn ôm vào tấm lòng. Em than thở với tôi,
đã có câu “nghèo cho sạch, rách cho thơm” còn sáng tác ra câu “bần cùng sanh...
lâm tặc, ngư tặc” chi vậy không biết. Tôi biểu em đừng tiếc nữa mà em không
chịu nghe, mới hay vừa ráo bùn tôi đã không còn là tôi nữa, chỉ có em thôi, bấy
lâu nay cái không cần thay đổi thì đã thay, cái cần đổi thì chưa đổi bao giờ.
Nhất là cái khoản luôn luôn nuối tiếc những gì mình không trở lại nữa, mà, trời
ơi, đời người có bao lâu đâu, không nhìn phía trước sau cứ lo ngoái lại.
Anh
à, em tôi có ý nhắn hỏi anh rằng, có phải em tệ lắm không. Bởi dù gì thì hơi ấm
con người đang làm cho đất thức dậy sau gần trăm năm vì sông nước chằng chịt,
vì rừng rậm hoang sơ cản đường người ta đi tới. Cuồn cuộn theo dấu chân của
những gia đình di cư, là xóm chợ xôn xao, những hàng quán mọc lên. Đất cuối
trời bừng tỉnh, sôi động. Những chiếc vỏ lãi cao tốc lướt băng băng trên sóng
làm con đường vốn xa ròng rã gần lại. Vậy thì lẽ ra em không nên buồn, không
nên tiếc mới phải? Em đã nhắn vậy rồi anh còn chần chừ ngại ngần chi nữa mà
không tới Đất Mũi hả anh?
Để
được đón anh về, có lẽ em tôi sẽ nhọc nhằn hơn nữa bởi hết lòng cố giữ những gì
đáng giữ. Này biển, này rừng, này tôm cá trên bãi bồi, này tính cách hồn nhiên
không vụ lợi của người Đất Mũi. Để anh có thể ngồi quây quần với bà con, đêm
thức nghe gió mùa tan trong bếp lửa, bên bữa rượu ấm nồng, tôi ngồi đếm tóc
anh, chợt giật mình thấy anh bạn mình tuổi đời có còn trẻ gì đâu, hú hồn, chút
xíu nữa là không kịp về Đất Mũi xứ tôi rồi. Đất Mũi gần gũi vậy, sao phải mất
tới mấy chục năm trời mới đến được vậy ta.
Nhưng
anh biết không, đi với anh dưới ánh nắng vàng dãi, len lỏi trong những mảng
rừng loang lổ, nhìn về cái bãi đất bồi hoang vắng, nếu thấy em tôi vui cười
chơi chơi vậy, chưa chắc em đang thật đâu, với em tôi, Đất Mũi ngày xưa sẽ đến
một ngày xa mãi.
Nếu
em tôi thật sự mệt mỏi buông xuôi rồi, thì tôi biết làm sao đây anh?
Nguyễn Ngọc Tư
No comments:
Post a Comment