Hồi nhỏ tôi sợ ông Chà
Và. Chưa từng nhìn thấy, nhưng ông hung thần đó sống động bằng những thêu dệt
của người lớn. Đen nhẻm, cao lớn dị thường, ông quảy theo cái túi to, có thể
chứa được vài ba đứa con nít mà lão tóm ở dọc đường, những đứa ham chơi dang nắng,
những đứa hay khóc, những đứa quậy phá, nghịch dại…
Người lớn luôn có cách
trị đám con nít bằng những truyền thuyết mù mờ và ly kỳ. Không phải tự dưng mà
nơi nguy hiểm cho trẻ con luôn là chỗ các loại ma trú ẩn. Riêng ông Chà Và
không chỉ náu trong bóng đêm, rờ rỡ dưới mặt trời ông hiện diện khắp nơi, ông
bắt trẻ hư đi bán, lão mổ bụng dồn trấu chúng nó…
Mười
năm sau, nỗi sợ trẻ con ấy đã được hoá giải bằng những cuốn sách, những hình vẽ
về người Java trong thư viện thị xã, những giả thuyết về Chà Và. Họ là những
người Ấn, người Phi có đầy đủ chân tay, mắt mũi.
Lấy họ để doạ trẻ con
không hẳn vì kỳ thị, mà vào cái thời giao lưu với bên ngoài còn hiếm, những
người nước ngoài vượt biển không cùng màu da, ngôn ngữ đến đây được xem như đến
từ trời khác, thế giới khác. Họ, cùng với ma, trở thành khắc tinh của trẻ hư.
Mười năm, vài ba nỗi
sợ hoang đường đủ để đứa trẻ tự điều chỉnh sự hoang dã bản năng của chính mình,
hình thành nhân cách một cách cơ bản nhất. Ngay khi người ta chưa biết đến
những điều khoản trên giấy tờ của luật pháp, họ đã được nhen lên trong đầu mình
những thứ luật tục riêng, những đạo lý riêng.
Khi cắt cổ con gà,
nghe bà ngoại tôi thì thầm “gà mày đừng có oán tao, tao hoá kiếp cho mày để đi
đầu thai mau mau”, con bé bảy tuổi là tôi bắt đầu tin có cái – gì – đó sau cái
chết. Tôi tin có thần có Phật, có những linh hồn dõi theo dù mình không nhìn thấy.
Nỗi sợ hồi ấy cũng đầy
mơ mộng, mông lung.
Giờ thì, con chị bán
cá chợ trời sợ công an, vì ông hay đuổi má nó chạy dài vào những ngày lễ lớn.
Con chị bán bánh sợ bà cho vay bạc góp nặng lãi vẫn hay chửi xói vào nhà. Con
anh thợ hồ sợ chính ba nó những ngày say rượu về gây gổ đuổi đánh vợ con. Bọn
nhỏ còn sợ cô giáo hay vớ lấy tất cả những thứ cô lấy được trong tay để làm
roi.
Nỗi sợ bây giờ mang
gương mặt người thân thích. Gọi nỗi sợ bằng những cái tên mà từng chữ cái ghép
nên chúng tưởng như chỉ gợi thương yêu, không phải là phập phồng, rón rén.
Người ta có thể vẽ lên mà không cần tưởng tượng, hình dung. Nên nỗi sợ giải
thiêng cũng nhanh.
Những đứa bé nhanh
chóng nhận ra chú công an, bà cho vay, ông cha say hay cô giáo… không phải ai
đáng cũng sợ. Và không phải lúc nào cũng đáng sợ.
Chiếc xe đạp – gia tài
quý giá của chị bán cá đã bị đánh cắp, và đứa trẻ ngộ ra thằng ăn trộm không sợ
chú công an, nếu sợ thì chúng đã không đánh cắp, và nếu sợ mẹ nó đã chạy đến
đồn để méc. Chú ta chỉ giỏi rượt đuổi mẹ nó thôi.
Trên nỗi sợ đã hết
phép là một khoảng hoàn toàn trống trải, không còn nỗi sợ nào tồn tại để chế
ngự bản năng. Người ta bắt đầu tự do như cỏ dại trước nhà.
Những bụi cỏ cao nhất
đám hay lấn lướt đè bẹp những bụi gần nó nhất. Con người bắt đầu có dấu hiệu
sống như cỏ. Những tội ác ngày càng dày, càng bất ngờ khó tưởng tượng khi lần
lượt cha, mẹ, vợ, chồng, con trở thành nạn nhân của chính người thân mình.
Không ngoại trừ nhiều
nhân vật thủ ác trong những câu chuyện tương tàn trên trang bốn, trang bảy của
các báo, đã từng là đứa trẻ nắm vạt áo người lớn gánh giấy bạc đi mua lộc của
thánh thần, và nó thấy những pho tượng cổ có vẻ mặt thần bí kia, có phép màu gì
mà thân giắt đầy tiền lẻ nom như ông già ăn mày ngoài chợ. Nó thấy những bậc
chân tu – người đang làm sứ giả của thần thánh cũng chơi game trên điện thoại
di động và miệng ngúc ngoắc cây tăm.
Cả thánh thần cũng
giải thiêng rồi, cũng gây cho người ta cái cảm giác “có thể mua được”, “bình
thường thôi, không đáng tin”… giống như pháp luật đã yếu mà còn mua được, lệ
làng đã cũ mà còn mua được… chúng ta còn gì để tự điều chỉnh hành vi của mình
những lúc bản năng tà ác ngoi lên, biết lấy nỗi sợ nào để chế ngự nó?
Nỗi sợ lớn nhất là
không biết sợ gì, tôi ngờ quá.
Nguyễn Ngọc Tư
No comments:
Post a Comment