Tôi không thích khi cưỡi xe vào tận thềm nhà lại
phải rạp mình dưới giàn bầu ấy. Chị và mẹ tôi lại ngại tóc rối. Cha tôi khó
chịu khi phải dắt quan khách len lỏi bên mấy trái bầu để vào căn nhà sang
trọng. Nhưng không ai dám chặt phá giàn bầu bởi nó của bà nội tôi. Bà trông nó
từ hồi trong quê ra. Thoạt đầu, chị em chúng tôi thích lắm, chiều chiều lon ton
xách thùng ra tưới. Chúng tôi tưới như tưới hoa. Nội cưòi- “Bay tưới như thằn
lằn đái”. Rồi bà đổ nước soàn soạt, chúng tôi nghe theo, đổ nước soàn soạt. Dây
bầu lớn. Trong cái nách mập mạp lú ra mấy trái con xanh xanh. Trái bằng đầu
đũa, bằng ngón tay, cườm tay rồi to to mãi. Bữa canh đầu tiên cả nhà háo hức,
nuốt tuồn tuột từng miếng bầu trong veo, ngọt lịm. Ba gật gật khen ngon, day
sang trách mẹ “sao trước giờ không mua bầu mà nấu ăn bà ta?”
Một lần, hai lần rồi ba lần, chúng tôi ngán tận
cổ. mà, chết thật, nội tôi cứ trồng mãi, trồng mãi, giàn bầu ngày càng rộng ra
choán hết khoảng sân kiểng của cha xanh rầm rì. Trái già đến vàng khô, không ai
ăn, bà mang cho hàng xóm. Hàng xóm chúng tôi cũng giàu có, họ chê nhưng cũng
nhận bởi họ nể cha tôi. Nhiều quá, sớm sớm, chiều chiều, nội mang ra ngõ, này
cho chị xôi chè một quả :”ăn lấy thảo”, này cho bác xích lo trái bầu “về nấu
cho sắp nhỏ”. Rồi bà lại trồng. Chị Lan nhăn nhó:
- Nội ơi, trồng chi nhiều vậy?
Bà nội cười, buồn buồn.
- Nội làm lặt vặt quen rồi. Trồng trọt để đỡ nhớ
quê.
Ôi cái quên của nội. Cái quê heo hút muốn về phải
đỉ mấy chặng xe, tàu. Cái quê mà mỗi lần về, vào cuối mùa mưa, đất bùn quến vào
móng chân tôi, ém chặt thối đen. Cái quên đèn cầy, đèn cóc, đêm nhóc nhen kêu
buồn nẫu ruột, mùa lũ, lơ phơ chỉ thấy mấy nóc nhà. Ba tôi nói “làm người đừng
suy nghĩ hẹp hòi, đừng tưởng nơi mình sinh ra, nơi có mồ mả ông cha là quê
hương, khắp đất nước này chỗ nào cũng là quê cả”. Cha tôi nói đúng và ông rước
bà nội lên thành phố. Trước, ông chủ tịch đến nhà chơi, uống bia khà khà rồi
nhắc: “- Lâu quá không gặp má, hôm nào chú mầy rước má lên, tội nghiệp bà già…”
Cha bưng bát hương ông đi trước, bà nội lúi húi bưng bát hương chú Út theo sau.
Ở nhà tôi, công việc nhàn đến mức bà thơ thẩn vào rồi lại thơ thẩn ra. Nhà cao
cửa rộng, khéo đi, cả ngày chẳng ai gặp mặt ai. Chị tôi đi học cả ngày, mẹ tôi
đến sở. Bà ra cửa trước, tôi vào cửa sau, bà lên lầu, cha đi xuống, gặp nhau ở
lối ngõ cầu thang, nội ngó cha, nhắc “Lúc này bay bận rộn, đến không không ăn
cơm ở nhà, khéo ngã bệnh nghen con”. Cha cười “má khỏi lo”. Rồi mỗi người mỗi
ngả. Bà năng xuống bếp, quấn quít ở đấy. Chị bếp khoe:
- Bác ơi, con làm bánh tổ nè, bác cháu mình cùng
ăn nghen.
Bà tôi gật gù khen ngon. Tôi tò mò nhón lấy một
miếng ăn thử, nó ngòn ngọt dai dai. Thứ bánh nhà quê này xem ra có khác với
Sandwich, chocolate. Bà làm nhiều thứ bánh lắm, không kể hết được, nào là bánh
ngọt, bánh ú....toàn là bánh nhà quê, mà hình như chỉ tôi ăn, ba mẹ, chị Lan
đều tránh xa xa hỏi " Bánh đó ăn ra làm sao? " Tôi khoe " Sáng
này nội làm bánh khọt ngọt ngon lắm." Chị Lan tròn mắt " bánh gì tên
ngộ vậy?
Ừ, ngộ, ngộ chứ. Nội mua về cái lò đất khói tù
mù. Cha tôi chê. Nội mang ra ngoài hè để đỡ ám khói tường nhà. Bà bảo:
"Làm bánh khọt thì phải đốt bằng lò đất, nó mới ngon". Bà đốt lửa,
mắt già tèm nhem nước mắt mùi khói thơm thơm, cay nồng. Mùa này nhiều trái bầu
khô, nội hái vào móc ruột ra, lấy cái vỏ mằn mì gọt. Lâu lâu nội đưa lên nhìn,
nheo nheo mắt. Tôi hỏi, nội gọt gì. Nội cười, đưa cho tôi mảnh vỏ dầy hình trái
tim nỏ xíu.
- Mặt dây chuyền cho tụi nhỏ đeo.
Tôi không nén được xuỳ một tiếng.
- Thời này ai đeo mấy thứ này, nội làm chỉ mất
công.
Trong đôi mắt đùng đục của bà, tôi thấy có một
nỗi buồn sâu kín. Con chị bếp dưới quê lên, bà gói dúi vào tay nó mấy mảnh bầu.
Con nhỏ hớn hở, vui thiệt là vui. Cũng niềm vui áy, con bé bán vé số lỏn lẻn
cười "Bà đẽo đẹp ghê ha". Hôm sau tôi thấy nó xúng xính xỏ cọng chỉ
vào, đeo tòn ten trươc cổ lạ lắm. Hình như tôi ngắm vàng ròng, cẩm thạch quen
rồi. Tôi xin, bà móm mém cười "Bà để dành cho bay cái đẹp nhất nè".
Tôi gói trái tim xíu xíu kia bỏ vào ngăn tủ, chị
Lan trông thấy giành "cho chị đi". Tôi lắc đầu. Chị giận bảo
"chị cóc cần, ở chợ bàn hàng khối". Nhưng rồi chị quay về nài nỉ tôi
. Lần đầu tiền, tôi thấy món quà của nội dễ thường đến thế.
Giàn bầu vãn trước ngõ. Cha tôi đã thôi khó chịu,
hay bực dọc riết rồi chai đi, chẳng biết bực là gì nữa. Nhưng khách đến nhà, ai
cũng khen" anh ba có giàn bầu đẹp thiệt". Họ săm soi, từng mảng lá
cuống hoa. Khách nước ngoài còn kề má bên trái bầu xanh lún phún lông tơ mà chụp
hình kỷ niệm. Mấy anh chị sinh viên đạp xe ngang dừng lại nhìn đau dấu qua rào
rồi kháo nhau "Nhớ nhà quá, tụi mày ơi". Chiều chiều, tôi ra giàn bầu
xanh rượi, mơ màng nghe con ong vò vẽ trên từng phiến lá, chớp mắt nhìn chim
sâu lích rích chuyển cành, chuồn chuồn rồi bướm rồi hoa thi nhau nở chấp chới.
Bà nội tôi yếu hơn trước, mùa mưa bắt đầu lướt sướt đi qua. Ông chủ tịch đến
chơi nhà, ôm chầm lấy nội , lắc lắc " lúc này má khoẻ không?" Nội
cười xoà mà nghe nghẹn nghẹn "khoẻ, má khỏe" . Cha tôi sai chị bếp
mang rượu thịt ra ông chủ tịch khóa tay:
- Thôi, chú bảo chị ấy nấu canh bầu ăn.
Cha hẩng mặt. Chị bếp lúi húi gọt bầu, mùi nước
canh xông vào mũi thơm lừng. Ông chủ tịch day qua bà nội khoe "lâu quá
không ăn canh bầu rồi, má!" nội cười: "má nhớ bay thích nhất là ăn
bầu nấu tép bạc". Cha dôi dợm mình "để con đi mua tôm". Ông chủ
tịch ấn vai, bảo "thôi , chú cứ ngồì xuống, anh thèm lắm rồi, không chờ
chú được đâu". Hôm ấy cả nhà tôi ăn lại bát canh ngày xưa, nghe ngọt lìm lịm
lưỡi. Chị bếp ngó nội, khoái chí cười đầy hàm ý. Hình như nội tôi vui.
Giàn bầu thưa hẳn đi. Cái giống lạ thật. Nắng bao
lâu vẫn xanh tốt, mới mưa dầm lại héo dây. Tôi đập vỡ trái bầu khô, lấy hạt ra
ươm. Mùa mưa dữ dội, nội tôi bệnh , bà bị chứng tai biến não. Nội lơ ngơ, đã
cười đã khóc thì không sao dừng được, tay run rẩy cầm ca nước, bát cơm cũng
khó. Trời đổ mưa, sấm giật ầm ầm, nội thều thào nhắc:
- Sắp nhỏ đừng hứng nước mưa đầu mùa, hỏng tốt.
Chà, mưa vầy ngập đồng rồi, ngâm giống gieo mạ đi thôi.
Bà nội lẩn thơ lẩn thẩn rồi, mà hình như bà chỉ
nhớ về quá khứ. Nội hay ra ngoài hiên, chăm chăm nhìn giàn bầu đang run rẩy
trong gió. Bà ngồi đấy lặng lẽ, thẫn thờ, như chờ một tiếng vạc sành, một tiếng
ếch kêu. Tay bà lạnh ngắt, tôi chạy vào phòng lấy lọ dầu thoa, vẫn thấy mảnh bầu
trái tim màu vàng trong ngăn kéo, cái màu vàng như của rạ, của lúa, như của mái
nhà lá nhỏ lơ phơ dưới nắng chiều. Giàn bầu vẫn trước ngõ, có kẻ đi qua kêu
lên, "tôi nhớ nhà". Cha tôi bảo: "có thể bứt người ta ra khỏi
quê hường nhưng không thể tách quê hương ra khỏi chúng trái tim con
người." Và cha tôi lại nói đúng.
Nguyễn
Ngọc Tư
No comments:
Post a Comment